Thứ tư, 30/11/2016 14:26 GMT+7

Xây dựng và đánh giá hiệu quả một số phác đồ phòng ngừa sự tiến triển của bệnh lý cầu thận mạn tính tại cộng đồng

Bệnh thận mạn được chẩn đoán khi có một trong hai tình trạng như sau: Thứ nhất là có tổn thương thận ≥03 tháng, bao gồm những bất thường về cấu trúc hoặc chức năng thận, có hoặc không sự suy giảm độ lọc cầu thận, biểu hiện bằng sự bất thường về giải...


Nhằm mục đích phát hiện sớm được bệnh thận để có thể kịp thời ngăn ngừa được sự tiến triển, áp dụng các biện pháp điều trị phù hợp và theo dõi định kỳ của bệnh lý cầu thận mạn cho cộng đồng. Nhóm nghiên cứu do PGS.TS. Đinh Thị Kim Dung, Bệnh viện Bạch Mai, Bộ Y tế đứng đầu đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Xây dựng và đánh giá hiệu quả một số phác đồ phòng ngừa sự tiến triển của bệnh lý cầu thận mạn tính tại cộng đồng” với các nội dung bao gồm: Nghiên cứu xếp loại bệnh lý cầu thận theo nguyên nhân (viêm cầu thận nguyên phát hoặc thứ phát sau đái tháo đường và tăng huyết áp) và đánh giá mức độ nặng nhẹ của bệnh lý dựa vào chức năng thận. Xây dựng một số phác đồ điều trị nhằm ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh và bảo vệ chức năng thận. Đánh giá hiệu quả điều trị và bảo vệ chức năng thận của từng phác đồ.

Sau khi hoàn thành nghiên cứu trên 450 bệnh nhân mắc bệnh thận mạn chia 3 nhóm (nhóm 1 gồm 150 bệnh nhân không theo phác đồ điều trị; nhóm 2 gồm 150 bệnh nhân sử dụng Enahexan (Enalapril 5mg), nhóm 3 gồm 150 bệnh nhân sử dụng Nifehexan (Nifedipin 20mg) và theo dõi dọc theo sau 2 năm còn 250 bệnh nhân.

Nhóm nghiên cứu rút ra kết luận:
Bệnh cầu thận nguyên phát là nguyên nhân chính thường gặp nhất chiếm tỷ lệ 84,7%. Bệnh cầu thận do đái tháo đường chiếm tỷ lệ thấp 2,0% (ngoài chương trình của bệnh nhân đái tháo đường). Bệnh cầu thận do các nguyên nhân khác chiếm tỷ lệ 13,3%, trong đó có nguyên nhân do tăng huyết áp.

Tỷ lệ bệnh thận mạn ở giai đoạn 3 tăng lên có ý nghĩa sau 1 năm (6,8% lên 11,6% và sau 2 năm (từ 11,6% lên 18,8%). Nhóm UCMC (ức chế men chuyển) không có bệnh nhân nào tăng lên giai đoạn 3, trong khi tỷ lệ này ở nhóm UCCC (ức chế can xi) và nhóm không theo phác đồ tăng lên rõ rệt có ý nghĩa thống kê.

Từ các kết luận này, nhóm nghiên cứu thiết lập được phác đồ thẽo dõi và điều trị ngoại trú ở những người đã được phát hiện bệnh thận mạn (bệnh cầu thận mạn) như sau:
Bước 1:
- Chẩn đoán xác định bệnh thận (dựa theo tiêu chuẩn)
Bước 2:
- Chẩn đoán giai đoạn bệnh thận mạn
- Chẩn đoán nguyên nhân bệnh thận mạn và điều trị nguyên nhân (nếu có thể).
- Chẩn đoán bệnh đi kèm và các yếu tố nguy cơ (đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loại lipid máu, nhiễm trùng,...)
Bước 3: Điều trị với mục tiêu làm dừng lại hoặc làm giảm tốc độ suy thận, ngăn chặn tổn thương thêm vào, cụ thể:
- Thuốc ức chế men chuyển hoặc ức chế thụ thể kể cả không có tăng huyết áp
- Kiểm soát huyết áp chặt chẽ ≤ 125/75 mmHg hoặc thấp hơn nếu protein niệu >1g/24h bằng thuốc UCCC và UCMC, UCTT (ức chế thụ thể), lợi tiểu, giảm muối.
- Điều trị rối loại lipid máu bằng chế độ ăn và thuốc hạ đường huyết.
- Chế độ ăn giảm đạm theo tùy từng giai đoạn bệnh thận mạn (<1g/kg/ngày).

Hiệu quả điều trị ở nhóm đối chứng (không theo phác đồ điều trị), hiệu quả điều trị ở nhóm sử dụng phác đồ 1 (sử dụng thuốc ức chế men chuyển Enalapril 5mg với liều lượng tùy từng bệnh nhân cụ thể) và hiệu quả điều trị ở nhóm sử dụng phác đồ 2 (sử dụng thuốc chẹn kênh canxi Nifedipin 20mg với liều tùy từng bệnh nhân cụ thể) đều cho thấy: Huyết áp giảm có ý nghĩa thống kê sau 1 và 2 năm theo dõi; Nồng độ Creatinin máu tăng lên có ý nghĩa sau 1 và 2 năm theo dõi; Mức lọc cầu thận giảm có ý nghĩa sau 1 và 2 năm theo dõi điều trị.

Một số so sánh hiệu quả điều trị của 3 nhóm: Ở nhóm sử dụng ức chế men chuyển có 71,4% số bệnh nhân giảm được protein niệu, tỷ lệ này cao hơn các nhóm còn lại có ý nghĩa thống kê; Có creatinin tăng ít hơn so với 2 nhóm còn lại, khác biệt có ý nghĩa thống kê; Có 16,7% bệnh nhân có mức lọc cầu thận giảm <60ml/ph, tỷ lệ này thấp nhất so với 2 nhóm còn lại, khác biệt có ý nghĩa; Không có bệnh nhân nào chuyển sang giai đoạn 3 sau 2 năm, trong khi nhóm UCCC và nhóm không theo phác đồ tỷ lệ bệnh nhân giai đoạn 3 tăng lên có ý nghĩa (từ 12,7% lên 32,5% và từ 10% lên 22,1%).

Như vậy, phác đồ điều trị theo dõi bệnh thận mạn trong đó có bệnh cầu thận giúp các bác sỹ tham khảo, áp dụng cho bệnh nhân ngoại trú. Nhóm nghiên cứu đã khẳng định được vai trò của thuốc ức chế men chuyển trong việc điều trị bệnh nhân bệnh thận mạn vượt hơn thuốc ức chế canxi và không điều trị theo hướng. Thuốc hạ huyết áp nhóm ức chế men chuyển có thể sử dụng cho bệnh nhân mắc bệnh thận mạn giai đoạn 1, 2 do bệnh cầu thận mạn trong cộng đồng đề giảm protein niệu và bảo tồn chức năng thận.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 11498) tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.

Lượt xem: 1252

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)