Bài 1: Luật Chuyển giao công nghệ: Sửa đổi đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Sau gần 10 năm triển khai thực hiện, Luật CGCN năm 2006 đã góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới và CGCN trong nước, ứng dụng các tiến bộ KH&CN trong sản xuất và đời sống, từng bước giúp cải thiện năng lực công nghệ của doanh nghiệp và nền kinh tế, nâng cao tốc độ tăng trưởng của các ngành, lĩnh vực.
Tại Phiên họp toàn thể lần thứ ba của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội (UBKH, CN&MT), Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh đã cho biết như trên. Đồng thời cho rằng, ngày nay bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi, buộc chúng ta phải rà soát nội dung của Luật để có điều chỉnh phù hợp, đáp ứng kịp thời các yêu cầu mới phát sinh từ thực tiễn.
Chuyển giao nhiều công nghệ tiên tiến, hiện đại
Luật CGCN được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29/11/2006, trong bối cảnh Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (01/2007), thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam thấp (chưa đạt mức 700 USD), tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào tăng quy mô vốn đầu tư, lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên không tái tạo. Luật được đánh giá là một Luật có tư tưởng tiến bộ với chủ trương trao quyền tự chủ tối đa cho doanh nghiệp trong việc mua bán, CGCN, từ chỗ Nhà nước quản lý chặt chẽ CGCN, đặc biệt CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam như quy định giá trần trong CGCN (công nghệ thông thường mức phí CGCN tối đa 5% giá bán tịnh), quy định thời hạn CGCN (hợp đồng CGCN có thời hạn tối đa 7 năm) chuyển sang cơ chế mở hoàn toàn, chỉ những công nghệ thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao các bên mới phải đề nghị cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xem xét, cấp phép CGCN. Còn đối với những công nghệ thuộc Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao và công nghệ thông thường, các bên có quyền chuyển giao không cần đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Trong 10 năm triển khai thực hiện, Luật đã góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới và CGCN trong nước, ứng dụng các tiến bộ KH&CN trong sản xuất, đời sống, từng bước giúp cải thiện năng lực công nghệ của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Theo bà Đỗ Thị Bích Ngọc – Phó Vụ trưởng Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ, Luật CGCN cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra một hành lang pháp lý giúp quy định, hướng dẫn và khuyến khích các hoạt động CGCN nghệ tại Việt Nam. Thông qua hoạt động CGCN, một số ngành, lĩnh vực đã tiếp nhận, làm chủ những công nghệ tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cụ thể, trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông, hàng loạt công nghệ hiện đại đã được chuyển giao và ứng dụng thành công như mạng viễn thông số hóa, mạng thế hệ sau, mạng cáp quang, công nghệ GSM, CDMA. Một số công nghệ mới như WiMax, mobile TV đang được tiếp tục thử nghiệm để đưa vào ứng dụng. Số lượng doanh nghiệp ứng dụng CNTT vào kinh doanh, thương mại điện tử tăng nhanh. Những năm gần đây, Việt Nam đã triển khai thành công một số hoạt động CGCN trong lĩnh vực CNTT và truyền thông với 2 cường quốc lớn là Hoa Kỳ, Nhật Bản.
Trong lĩnh vực công nghệ sinh học (CNSH), mỗi năm Việt Nam thu được hàng chục tỉ đồng từ việc chuyển giao các thành tựu khoa học trong lĩnh vực CNSH. Viện CNSH và các tổ chức, doanh nghiệp trong nước khác đã phát triển, xây dựng, chuyển giao thành công các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực CNSH như công nghệ gen, công nghệ protein và vắc-xin tái tổ hợp.
Việc CGCN đã mang lại nhiều thành tựu lớn trong lĩnh vực nghiên cứu, sản xuất vắc-xin
Về công nghệ tự động hóa, một số loại vật liệu mới đã được chuyển giao, ứng dụng trong các lĩnh vực xây dựng, cơ khí, chế tạo, điện tử ứng dụng, tàu thủy. Vật liệu polymer composit đã được ứng dụng trong lĩnh vực đóng tàu thủy hoặc phục vụ sản xuất nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, sản xuất vật liệu cách điện silicon rubber, các thiết bị chống ăn mòn hoá chất, các thiết bị có tính năng mới cho máy phát điện và sứ cách điện.
Về CGCN qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), bà Ngọc cho rằng, đây là kênh thu hút kỹ thuật nước ngoài phổ biến và quan trọng trong giai đoạn vừa qua. CGCN qua các dự án FDI cũng đã đưa nhiều công nghệ mới, hiện đại vào nước ta nhất là trong các lĩnh vực dầu khí, điện tử, viễn thông, ôtô xe máy... Nhiều ngành nghề, sản phẩm mới được tạo ra với công nghệ hiện đại, chất lượng tạo tiêu chuẩn quốc tế, góp phần tăng đáng kể năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Điều này đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên được khai thác, sử dụng rất hiệu quả.
CGCN qua các dự án FDI đã đưa nhiều công nghệ mới, hiện đại vào nước ta
Đi liền với CGCN là quá trình tiếp nhận kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới và đào tạo được đội ngũ lao động có trình độ cao, có khả năng sử dụng được các công nghệ hiện đại. Ngoài ra, CGCN còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, năng lực công nghệ trong nước được nâng cao.
Thông qua chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao KH&CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi và chương trình hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi giai đoạn 2011-2015, đã hỗ trợ các địa phương ứng dụng và CGCN phát triển các sản phẩm.
Với các kết quả đạt được, CGCN cho vùng nông thôn, miền núi, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn đã góp phần nâng cao trình độ nhận thức về sản xuất nông nghiệp theo phương thức công nghiệp hóa, giúp người dân dần tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến trong và ngoài nước.
Thực tiễn đòi hỏi sửa đổi
Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh, hiện nay bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi, buộc chúng ta phải rà soát nội dung của Luật để có điều chỉnh phù hợp, đáp ứng kịp thời các yêu cầu mới phát sinh từ thực tiễn. Tư duy hoạch định chính sách về CGCN cũng cần được đổi mới thì mới bắt nhịp được với các thay đổi không ngừng của đời sống công nghệ công nghiệp hiện nay.
CGCN sau gần một thập kỷ đi vào cuộc sống đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập, chưa theo kịp được với xu thế đổi mới trong phát triển kinh tế, KH&CN. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả của Luật CGCN, chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi và phù hợp thúc đẩy hoạt động đổi mới, ứng dụng và CGCN phục vụ phát triển đất nước nhanh và bền vững trong bối cảnh mới, Bộ trưởng nói.
Theo các chuyên gia, có thể nói, với cơ chế mở, chúng ta thiếu công cụ pháp lý để kiểm soát luồng công nghệ chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam. Tình trạng lợi dụng môi trường đầu tư thông thoáng, du nhập công nghệ lạc hậu, gây tác động tiêu cực đối với môi trường buộc chúng ta phải nhìn nhận lại cơ chế quản lý công nghệ, CGCN hiện nay. Cũng chính từ cơ chế mở trong quản lý hợp đồng CGCN thời gian qua đã tạo điều kiện cho một số đối tượng lợi dụng chuyển giá qua hoạt động CGCN.
Để góp phần hạn chế việc nhập khẩu, sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, trong Luật KH&CN đã quy định nội dung thẩm định công nghệ các dự án đầu tư, tuy nhiên, Luật Đầu tư lại không quy định chặt chẽ như Luật KH&CN nên việc triển khai các quy định này trong Luật KH&CN gặp khó khăn.
Đồng thời với việc thẩm định công nghệ ngay từ giai đoạn đầu, chế độ báo cáo việc thực hiện hợp đồng CGCN thông qua các cơ quan thuế, ngân hàng cũng không được quy định, điều này dẫn đến việc các cơ quan quản lý không nắm được đầy đủ hoạt động mua, bán, nhập khẩu công nghệ.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung các quy định về quản lý hoạt động CGCN là thực sự cần thiết, đặc biệt là CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam để bảo đảm công nghệ nhập khẩu đúng định hướng, tránh nhập khẩu công nghệ lạc hậu, gây tác động tiêu cực đến môi trường và làm giảm đi sự canh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hội nhập sâu và rộng như hiện nay.
Việc Quốc hội thông qua Luật CGCN (sửa đổi) ngày 19/6 với tỉ lệ tán thành rất cao (93,28% (458/459) số đại biểu có mặt tán thành) đã thể hiện sự thống nhất, đồng thuận cao của các cấp, bộ, ngành, địa phương. Luật được kỳ vọng sẽ tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy hoạt động CGCN, thu hút công nghệ, CGCN, góp phần nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia và doanh nghiệp, thúc đẩy chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế đi đôi với kiểm soát công nghệ chuyển giao, bảo đảm môi trường xanh và phát triển bền vững đất nước.
Bài 2: Khẳng định vị trí, vai trò động lực quan trọng phát triển kinh tế xã hội của KH&CN