Hiện nay, cả nước có khoảng gần chín triệu hộ có chuồng trại quy mô hộ gia đình và khoảng 18 nghìn trang trại chăn nuôi tập trung. Tuy phần lớn các trang trại chăn nuôi tập trung đã có hệ thống xử lý chất thải với các công nghệ khác nhau nhưng hiệu quả xử lý chất thải chưa triệt để, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường (BVMT). Chăn nuôi hộ gia đình có khoảng 70% số hộ có chuồng trại, trong đó số chuồng trại hợp vệ sinh chỉ chiếm khoảng 10%; nhiều hộ chăn nuôi vẫn xả chất thải trực tiếp ra môi trường, gây ÔNMT nghiêm trọng, nhất là ở khu vực nông thôn. Ðáng chú ý, tại các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, nhất là ở khu vực nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, chất lượng môi trường đất, nước và các hệ sinh thái bị biến đổi mạnh do suy thoái và ô nhiễm; chất lượng nước tại các khu vực này có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ (BOD, COD, ni-tơ, phốt-pho… cao hơn tiêu chuẩn cho phép); đồng thời xuất hiện các khí độc hại và chỉ số vi sinh vật, độ đục, với nồng độ cao hơn mức cho phép, phát sinh dịch bệnh thủy sản, gây thiệt hại lớn cho nông dân.
Về hoạt động giết mổ gia súc, gia cầm, hiện cả nước có hơn 35 nghìn cơ sở giết mổ. Tại các cơ sở giết mổ tập trung, tuy đã xây dựng hệ thống xử lý chất thải nhưng nhiều cơ sở vẫn chưa đạt yêu cầu, nhất là về tiếng ồn, ô nhiễm mùi và nguồn nước thải. Các điểm giết mổ nhỏ lẻ chủ yếu nằm trong các khu dân cư và phát triển một cách tự phát, cơ quan chức năng chỉ kiểm soát được một phần nhỏ, cơ sở vật chất hầu như không có nơi dành riêng cho từng công đoạn, không tách biệt giữa khu sạch và khu bẩn; các loại chất thải xả tràn lan hoặc thải trực tiếp xuống sông, cống rãnh thoát nước, gây ÔNMT nghiêm trọng. Ðối với lĩnh vực chế biến thủy sản, vẫn còn khoảng 16% số cơ sở chế biến tập trung chưa có hệ thống xử lý nước thải. Một số cơ sở chưa có đủ năm công đoạn quan trọng trong hệ thống xử lý nước thải là bể tuyển nổi (tách dầu, mỡ), bể điều hòa, bể sinh học kỵ khí, bể sinh học bùn hoạt tính và bể khử trùng, cho nên hiệu quả xử lý ÔNMT còn thấp. Tại các cơ sở chế biến nhỏ lẻ nông, lâm, thủy sản, nhất là ở các làng nghề, việc kiểm soát, khắc phục ÔNMT, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế…
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, là do sự phát triển tự phát, thiếu quy hoạch trong hoạt động sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản. Ý thức tuân thủ pháp luật BVMT của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình còn thấp; nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh, hộ gia đình vì lợi ích kinh tế mà xem nhẹ công tác xử lý chất thải, BVMT. Hệ thống văn bản, cơ chế chính sách về xử lý chất thải và BVMT, nhất là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với nước thải chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, cơ sở giết mổ, chế biến thủy sản chưa phù hợp, chậm sửa đổi gây vướng mắc cho các doanh nghiệp, không khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho xử lý chất thải. Việc ứng dụng khoa học và công nghệ xử lý chất thải còn hạn chế, hiệu quả thấp; công tác phòng ngừa, ngăn chặn, kiểm soát phát sinh các cơ sở gây ÔNMT còn yếu. Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật BVMT chưa tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể, doanh nghiệp, hộ gia đình và toàn xã hội.
Để tăng cường kiểm soát, sớm khắc phục có hiệu quả tình trạng ÔNMT trong hoạt động sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tiếp tục tập trung thống kê, rà soát, phân loại về quy mô, mức độ ÔNMT đối với các cơ sở chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm, nuôi trồng, chế biến thủy sản và sản xuất, chế biến khác trong các lĩnh vực nông, lâm, thủy sản. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, quy trình kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật, danh mục sản phẩm xử lý môi trường đối với hoạt động chăn nuôi, giết mổ, nuôi trồng thủy sản tập trung; sản xuất chế biến khác trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, đáp ứng yêu cầu BVMT. Xây dựng mô hình về cơ sở sản xuất gắn với kiểm soát ÔNMT hiệu quả trong từng lĩnh vực, có lộ trình để nhân rộng đưa vào sản xuất; đẩy mạnh công tác nghiên cứu phát triển, chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ về khoa học, công nghệ thân thiện với môi trường, công nghệ thu gom và xử lý chất thải đối với cơ sở chăn nuôi và giết mổ tập trung, nuôi trồng thủy sản, sản xuất chế biến khác trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản hiệu quả và phù hợp với điều kiện của từng vùng miền…
Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ và các bộ, ngành có liên quan tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải phù hợp với tính chất đặc thù của các cơ sở chăn nuôi, giết mổ, nuôi trồng chế biến thủy sản tập trung và sản xuất chế biến khác trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản. Tổ chức các cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên đề, xử lý vi phạm pháp luật về BVMT đối với các cơ sở sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản theo thẩm quyền. Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo, hướng dẫn và xây dựng hệ thống quan trắc môi trường quốc gia làm cơ sở để ngành nông nghiệp quản lý, giám sát, cảnh báo môi trường trong sản xuất nông nghiệp; xác định và công bố mức độ ÔNMT tại các khu vực có mật độ tập trung cao các cơ sở sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản, kiến nghị cấp có thẩm quyền điều chỉnh quy hoạch, tổ chức lại sản xuất phù hợp với yêu cầu BVMT. Tăng cường giám sát cộng đồng đối với công tác BVMT và công tác đấu tranh đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản trên địa bàn…
Liên kết nguồn tin: http://nhandan.com.vn/khoahoc/item/32994702-kiem-soat-o-nhiem-moi-truong-trong-san-xuat-nong-lam-thuy-san.html