GIỚI THIỆU CHUNG
Trong suốt thập kỷ qua, Việt Nam đã có rất nhiều thay đổi quan trọng trong lĩnh vực bảo hộ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ ("SHTT"). Đây là kết quả của quá trình cải cách liên tục nhằm đảm bảo hệ thống pháp luật về bảo hộ, thực thi quyền SHTT của Việt Nam tuân thủ các cam kết quốc tế với mục tiêu là cải cách và hội nhập. Việc bổ sung các quy định của pháp luật về SHTT và tăng cường hệ thống thực thi quyền tương ứng là điều kiện để Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới ("WTO"). Trên thực tế, các chế định không thích hợp trước đây của Việt Nam về bảo hộ quyền SHTT là một trong những rào cản lớn nhất của Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO và hiện tại vẫn là đối tượng chịu nhiều sức ép từ phía các tổ chức quốc tế, theo đó yêu cầu phía Việt Nam phải hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hệ thống bảo hộ và thực thi quyền SHTT của mình. Trong khoảng thời gian trước khi gia nhập WTO, chính phủ Việt Nam đã có những thay đổi toàn diện về hệ thống pháp luật SHTT nhằm đưa ra một khung pháp lý đầy đủ về bảo hộ quyền SHTT phù hợp với các quy định của Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền SHTT ("TRIPs"). Mặt khác, Việt Nam cũng thừa nhận vai trò quan trọng của việc bảo hộ quyền SHTT trong việc phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại, khuyến khích hoạt động sáng tạo và phát minh phục vụ phát triển kinh tế. Việc Việt Nam tích cực tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực trong đó bảo hộ quyền SHTT là một phần quan trọng trong các cam kết thành viên cũng là một nhân tố thúc đẩy Việt Nam phải hoàn thiện hệ thống về bảo hộ và thực thi quyền SHTT. Từ giữa những năm 1990, Việt Nam đã liên tục sửa đổi và bổ sung các quy định về bảo hộ quyền SHTT cũng như các biện pháp chế tài để xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT. Tuy nhiên, thực tế gần đây cho thấy Việt Nam cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hơn nữa cơ chế bảo hộ và thực thi quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến tên thương mại và tên miền nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan cho phù hợp với những thay đổi và phát triển liên quan đến các tranh chấp và xung đột về sở hữu trí tuệ giữa các công cụ nhận diện thương mại là nhãn hiệu, tên thương mại và tên miền.
Để hỗ trợ cho đề án nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc áp dụng thủ tục, biện pháp hành chính trong xử lý vi phạm sở hữu công nghiệp liên quan đến tên doanh nghiệp và tên miền, chuyên đề này sẽ đi vào rà soát, giới thiệu, nghiên cứu và phân tích các quy định của pháp luật đến bảo hộ và thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với Nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam. Vì vậy, về mặt bố cục, tác giả sẽ lần lượt trình bày các quy định của pháp luật hiện hành, bao gồm cả luật quốc tế và luật trong nước, liên quan đến bảo hộ và thực thi quyền đối với bốn đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp nêu trên.
I . KHUNG PHÁP LÝ CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM
1. Luật quốc gia
Hệ thống pháp luật quốc gia của Việt Nam về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu trí tuệ được quy định ở trong các văn bản pháp luật hiện hành như: Bộ luật Dân sự (phần sở hữu trí tuệ); Bộ luật Hình sự (phần sở hữu trí tuệ), Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Cạnh tranh; Luật Thương mại; Luật Doanh nghiệp; Luật Công nghệ Thông tin...và các văn bản hướng dẫn các luật trên.
2. Luật quốc tế
Cùng với quy định của pháp luật quốc gia, các điều ước quốc tế đa phương, song phương và khu vực là một nguồn luật không thể thiếu khi xem xét việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Vì vậy, trong hoạt động thực thi và bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, cơ quan thực thi cần lưu ý viện dẫn đến các công ước quốc tế sau đây về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mà Việt Nam đã tham gia:
2.1. Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883
Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883 tạo lập cơ sở chung nhất cho các thỏa thuận đa phương và song phương khác về bảo hộ quyền SHCN. Tính đến tháng 10 năm 2011 có 173 quốc gia là thành viên của Công ước này, trong đó Việt Nam tham gia là thành viên từ năm 1949.
Công ước Paris áp dụng cho sở hữu công nghiệp theo nghĩa bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và chống cạnh tranh không lành mạnh.
Công ước Paris đề ra nguyên tắc “đối xử quốc gia”[1] theo đó, công dân Việt Nam có quyền được hưởng các điều kiện thuận lợi như công dân của bất kỳ một nước thành viên nào khác trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại nước đó, miễn là tuân thủ các điều kiện và thủ tục quy định đối với công dân của nước tương ứng. Quy định về chế độ đối xử quốc gia được đặt ra không chỉ nhằm bảo đẩm quyền của người nước ngoài được bảo hộ mà còn đảm bảo rằng họ không bị phân biệt đối xử theo bất kỳ cách nào liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
2.2. Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs).
Hiệp định TRIPs là hiệp định đa phương toàn diện nhất liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ được ký kết năm 1994 và bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/1995 cùng với sự ra đời của WTO. Hiệp định thừa nhận tầm quan trọng của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với hoạt động thương mại và đầu tư, các thiệt hại đối với các quyền lợi thương mại hợp pháp khi quyền sở hữu trí tuệ không được bảo hộ và thực thi thỏa đáng và hiệu quả. Điều 7 của Hiệp định TRIPs quy định rằng việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ “góp phần thúc đẩy phát minh công nghệ, chuyển giao và phổ biến công nghệ, phục vụ lợi ích của người sản xuất và người sử dụng tri thức công nghệ, theo hướng có lợi cho sự thịnh vượng kinh tế và xã hội, cân đối giữa quyền lợi và nghĩa vụ". Tính đến thời điểm hiện nay đã có hơn 150 quốc gia là thành viên của TRIPs, trong đó Việt Nam tham gia TRIPs từ năm 2007.
Hiệp định TRIPs bắt buộc tất cả các thành viên của WTO tuân thủ các Điều của Công ước Paris, bao gồm các nguyên tắc cơ bản cũng như quy định về hành chính và ngân sách. Hiệp định TRIPs đề cập một cách chính xác hơn nguyên tắc "đối xử quốc gia" đã có hiệu lực đối với nhiều quốc gia thành viên Công ước Paris. Cũng như Công ước Paris, Điều 3 Hiệp định TRIPs quy định nguyên tắc có đi có lại giữa các quốc gia thành viên. Mỗi quốc gia thành viên phải dành cho công dân của các quốc gia thành viên khác sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không kém thuận lợi so với sự đối xử dành cho công dân nước đó.
Hiệp định TRIPs, ngoài việc đề cập đến các nguyên tắc cơ bản của Công ước Paris, đã vượt ra ngoài Công ước Paris và lần đầu tiên đưa ra một nguyên tắc mới đó là "đối xử tối huệ quốc". Theo Điều 4 của Hiệp định TRIPs, "bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc miễn trừ nào được một thành viên dành cho công dân của bất kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành cho công dân của tất cả các thành viên khác".
2.3. Các điều ước quốc tế song phương và khu vực khác
Ngoài hai công ước quốc tế quan trọng nhất là Công ước Paris và Hiệp định TRIPS về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, khi xem xét đến việc bảo hộ và thực thi quyền đối với các đối tượng là nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, cần tính đến cả các điều ước song phương và khu vực mà Việt Nam đã tham gia ký kết:
- Hiệp định khung ASEAN về hợp tác sở hữu trí tuệ;
- Kế hoạch của Cộng đồng kinh tế Asean (Asean Economy Community Blueprint);
- Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Asean - Nhật Bản;
- Hiệp định phi thương mại Asean - New Zealand - Australia (phần sở hữu trí tuệ);
- Hiệp định song phương Việt Nam - Hoa Kỳ;
- Hiệp định hợp tác khoa học giữa Việt Nam - Hoa Kỳ (phần SHTT);
- Hiệp định Việt Nam - Thụy Sĩ về bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ;
- Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (phần sở hữu trí tuệ).
II. QUY ĐỊNH VỀ BẢO HỘ VÀ THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1. Đối với nhãn hiệu
1.1. Quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu
Nhãn hiệu, theo nghĩa chung nhất, được hiểu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau[2]. Tại Việt Nam, một dấu hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu nếu chúng đáp ứng các quy định về điều kiện bảo hộ được quy định tại Điều 72 Luật SHTT, theo đó, nhãn hiệu (i) phải là các dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; và (ii) các dấu hiệu này phải có khả năng phân biệt. Để cụ thể hóa điều khoản này, Luật SHTT có đưa ra Điều 73 quy định chi tiết về các dấu hiệu không được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu và Điều 74 phân tích về các trường hợp theo đó nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt.
Nhằm nội luật hóa các quy định của Công ước Paris, Việt Nam cũng giới thiệu trong hệ thống pháp luật của mình các chế định về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Mặc dù các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng đã được quy định tương đối cụ thể tại Điều 75 Luật SHTT, luật Việt Nam cũng đồng thời đưa ra định nghĩa gây tranh cãi về nhãn hiệu nổi tiếng. Cụ thể là Điều 4.20 Luật SHTT có giải thích "nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam" trong khi đó tại Điều 6bis Công ước Paris không đưa ra quy định về việc nhãn hiệu để được coi là nổi tiếng phải được đăng ký và/hoặc sử dụng rộng rãi ở quốc gia đang xem xét. Theo quy định của Điều 6bis Công ước Paris, "các nước thành viên có trách nhiệm từ chối hoặc hủy bỏ đăng ký, ngăn cấm việc sử dụng một nhãn hiệu có tính sao chép, bắt chước, phiên dịch và có khả năng gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu đã được cơ quan có thẩm quyền của nước đăng ký hoặc sử dụng coi là nhãn hiệu nổi tiếng tại nước đó". Về bản chất, quy định này của Công ước Paris nhằm mở rộng phạm vi bảo hộ đối với một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng ở một quốc gia thành viên ngay cả khi nhãn hiệu đó chưa được đăng ký hoặc sử dụng ở quốc gia đó. Việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng không căn cứ vào đăng ký nhãn hiệu này để ngăn cản việc đăng ký hoặc sử dụng một nhãn hiệu xung đột, mà dựa vào chính danh tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng đó[3]. Từ quy định mẫu thuẫn của Điều 4 Luật SHTT, trong thực tiễn áp dụng luật SHTT, các cơ quan đăng ký và thực thi quyền của Việt Nam đã có cách hiểu và xử lý không thống nhất khi xem xét các hồ sơ liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng: một số trường hợp nhãn hiệu sẽ được thừa nhận là nổi tiếng khi xem xét ở Việt Nam mà không cần phải cung cấp bằng chứng về việc nhãn hiệu đã được sử dụng ở Việt Nam, một số trường hợp thì chủ sở hữu phải cung cấp bằng chứng sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam.
Trong mối quan hệ giữa nhãn hiệu với chỉ dẫn địa lý và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, Luật SHTT có quy định là các dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc, xuất xứ, tính năng, cô[i]ng dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ sẽ không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu[4]. Ngoài ra, luật cũng loại trừ việc bảo hộ nhãn hiệu cho các dấu hiệu "chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ"[5] vì các dấu hiệu này bị coi là không có khả năng phân biệt. Tuy nhiên, một ngoại lệ cho việc đăng ký các dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý là các dấu hiệu này đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu hoặc được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận. Thêm vào đó, để bảo hộ toàn diện đối tượng chỉ dẫn địa lý, Luật SHTT định nghĩa "các dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ" sẽ không được bảo hộ là nhãn hiệu nếu việc sử dụng dấu hiệu này có thể làm người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn gốc địa lý của hàng hóa[6]. Phạm vi bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý còn được mở rộng hơn nữa khi luật pháp Việt Nam không chấp nhận cho đăng ký "các dấu hiệu trùng, có chứa hoặc được dịch nghĩa, phiên âm từ, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho rượu vang, rượu mạnh nếu dấu hiệu được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó"[7].
Trong mỗi quan hệ với tên thương mại, Luật SHTT ngăn chặn việc đăng ký là nhãn hiệu các dấu hiệu "trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với tên thương mại đang được sử dụng của người khác" nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ[8].
1.2. Quy định về hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu
Khi nhãn hiệu được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam, các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu[9]:
(i) sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng, tương tự hoặc có liên quan tới hàng hóa, dịch vụ đã được đăng ký theo nhãn hiệu; hoặc
(ii) sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng định nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
Một lưu ý khi xác định hành vi vi phạm trong trường hợp (i) nêu trên là đối với các vụ việc xâm phạm về nhãn hiệu liên quan đến yếu tố dấu hiệu tương tự hoặc cho các hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc có liên quan, bên thực thi quyền cần cung cấp thêm chứng cứ, tài liệu và lập luận rằng việc sử dụng các dấu hiệu trong trường hợp này có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ.
Ngoài ra, khi xem xét "hành vi sử dụng nhãn hiệu" bị coi là xâm phạm quyền, Điều 124.5 Luật SHTT cũng có quy định sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện các hành vi sau đây:
(i) Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; hoặc
(ii) Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ; hoặc
(iii) Nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.
Một điểm hết sức lưu ý khi xem xét vấn đề xử lý hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nói riêng là Việt Nam quy định việc xử phạt hành chính đối với cả hành vi trực tiếp và gián tiếp xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Cụ thể là, tổ chức và cá nhân thực hiện một trong các hành vi xâm phạm nhãn hiệu sau đây vì mục đích kinh doanh, tùy theo tính chất và mức độ xâm phạm (ví dụ như quy mô và giá trị hàng hóa, dịch vụ bị xâm phạm) sẽ bị áp dụng các mức xử phạt hành chính khác nhau[10]:
(i) Bán; chào hàng; vận chuyển, kể cả quá cảnh; tàng trữ; trưng bày để bán hàng hóa, dịch vụ xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu;
(ii) Đặt hàng, giao việc, thuê người khác thực hiện hành vi nêu tại mục (i) nêu trên
Luật cũng phân biệt rõ một số hành vi xậm phạm quyền đối với nhãn hiệu sau đây sẽ bị áp dụng mức xử phạt hành chính cao do tính chất của hành vi xâm phạm. Cụ thể là[11]:
(iii) Sản xuất, bao gồm việc thiết kế, chế tạo, gia công, lắp ráp, chế biến, đóng gói hàng hóa mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu;
(iv) Gắn, bao gồm in, dán, đính, đúc, dập khuôn hoặc bằng hình thức khác tem, nhãn, vật phẩm khác mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu;
(v) Nhập khẩu hàng hóa mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu; hoặc
(vi) Đặt hàng, giao việc, thuê người khác thực hiện các hành vi nêu tại mục (i), (ii) và (iii) của đoạn này.
Một điểm cuối cùng cần lưu ý khi xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là mặc dù luật SHTT không quy định "xuất khẩu" là hành vi xâm phạm quyền, chủ thể quyền vẫn có thể vận dụng các điều khoản khác quy định về hành vi xâm phạm nhãn hiệu để gián tiếp xử lý hành vi xâm phạm này như "sản xuất, bán; chào hàng; vận chuyển; tàng trữ; trưng bày; lưu thông, gắn, đặt hàng, giao việc thuê người khác thực hiện các công việc nêu trên nếu chứng minh sản phẩm, hàng hóa có tiêu thụ tại thị trường Việt Nam.
2. Đối với tên thương mại
2.1. Quy định về bảo hộ tên thương mại
Tên thương mại được định nghĩa theo quy định của luật Việt Nam là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh[12]. Tên thương mại được bảo hộ nếu có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Luật SHTT có đưa ra tại Điều 77 quy định về các dấu hiệu không được bảo hộ dưới danh nghĩa tên thương mại.
Tên thương mại cũng được quy định bảo hộ trong Công ước Pari 1883, theo đó các nước thành viên phải bảo hộ tên thương mại mà không được đặt ra yêu cầu về việc nộp đơn yêu cầu bảo hộ hoặc đăng ký[13]. Định nghĩa tên thương mại nhằm mục đích bảo hộ và cách thức thực thi việc bảo hộ tên thương mại được dành cho pháp luật của các quốc gia có liên quan điều chỉnh. Vì vậy, việc bảo hộ có thể căn cứ vào luật riêng về tên thương mại hoặc luật chung về chống cạnh tranh không lành mạnh.
Trong mối quan hệ giữa tên thương mại với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý, pháp luật quy định tên thương mại sẽ không được bảo hộ nếu nó là dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng.
Ngoài luật SHTT, tên thương mại còn được điều chỉnh bởi các quy định của Luật doanh nghiệp, theo đó, doanh nghiệp không được phép đặt tên trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã được đăng ký trong phạm vi toàn quốc[14].
Luật doanh nghiệp cũng không cho phép doanh nghiệp sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý của tổ chức, cá nhân đã được bảo hộ để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp được sự chấp thuận của chủ sở hữu tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đó. Trước khi đăng ký đặt tên doanh nghiệp, doanh nghiệp có nghĩa vụ tham khảo các nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đã đăng ký và được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu về nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý của Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ.
Căn cứ để xác định tên doanh nghiệp vi phạm quyền sở hữu công nghiệp được thực hiện theo các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu đặt tên doanh nghiệp vi phạm các quy định về sở hữu trí tuệ. Trường hợp tên của doanh nghiệp vi phạm các quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì doanh nghiệp có tên vi phạm phải đăng ký đổi tên[15].
2.2. Quy định về hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại
Điều 129.2 Luật SHTT quy định mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền đối với tên thương mại. Mặc dù không có quy định dẫn chiếu trực tiếp, chỉ dẫn thương mại có thể được hiểu là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hóa, nhãn hàng hóa[16].
Việc xử lý hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại được quy định tương tự như hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu đã được giới thiệu ở Mục 3.2 nêu trên. Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý trong việc xử lý hành chính đối với hành vi "sử dụng tên thương mại xâm phạm quyền sở công nghiệp của chủ thể khác” là ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền, để xử lý triệt để hành vi xâm phạm, cơ quan thực thi quyền có quyền áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là buộc thu hồi tên doanh nghiệp chứa yếu tố vi phạm[17]. Tuy nhiên, giá trị thực thi của điều khoản này vẫn còn là vấn đề phải tiếp tục bàn bạc và xây dựng vì việc đăng ký và thu hồi tên doanh nghiệp sẽ thuộc quyền quản lý của Sở kế hoạch và đầu tư hoặc Ủy ban Nhân dân trong khi đó cơ quan xử phạt hành chính có quyền ra quyết định thu hồi tên doanh nghiệp chứa yếu tố vi phạm lại là cơ quan thuộc bộ khác với Bộ Kế hoạch Đầu tư (cơ quan chủ quản của Sở kế hoạch đầu tư). Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng được một cơ chế phối hợp thống nhất và đồng bộ giữa các cơ quan thực thi và quản lý liên quan để đảm bảo giá trị hiệu lực của quy định tại Điều 15.d Nghị định 97.
Ngoài ra, trong trường hợp phát hiện doanh nghiệp đăng ký tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, chủ sở hữu công nghiệp có quyền đề nghị Cơ quan đăng ký kinh doanh yêu cầu doanh nghiệp có tên xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình phải thay đổi tên gọi cho phù hợp. Chủ sở hữu công nghiệp có nghĩa vụ cung cấp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh các tài liệu cần thiết sau đây:
(i) Bản sao hợp lệ Văn bản kết luận của cơ quan có thẩm quyền về việc sử dụng tên doanh nghiệp là vi phạm quyền sở hữu công nghiệp;
(ii). Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý, bản trích lục Sổ đăng ký quốc gia về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý do Cục Sở hữu trí tuệ cấp đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý; bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam hoặc bản sao Công báo nhãn hiệu quốc tế của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới hoặc công báo sở hữu công nghiệp có xác nhận của Cục sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu đăng ký quốc tế; tài liệu chứng minh tên thương mại được sử dụng một cách hợp pháp, liên tục trong thời gian trước khi tên doanh nghiệp bị tranh chấp được đăng ký đối với tên thương mại.
Về mặt thủ tục, Cơ quan đăng ký kinh doanh, trong thời hạn mười ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại của chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp, ra Thông báo yêu cầu doanh nghiệp xâm phạm đổi tên doanh nghiệp và làm thủ tục thay đổi tên trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày ra Thông báo. Sau thời hạn trên, nếu doanh nghiệp không thay đổi tên theo yêu cầu, Cơ quan đăng ký kinh doanh thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Theo quy định này, có thể hiểu vụ việc có thể được tiếp tục xử lý theo thủ tục hành chính theo quy định tại Nghị định 97. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần có cơ chế phối hợp theo đó Sở kế hoạch Đầu tư sẽ thi hành quyết định thu hồi tên doanh nghiệp do các cơ quan thực thi được quy định tại Điều 15 Nghị định 97 ban hành.
3. Đối với chỉ dẫn địa lý
3.1. Quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ dẫn sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chỉ đẫn địa lý được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây[18]:
(i) Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý;
Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định.
Ngoài ra, luật cũng quy định các đối tượng sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý:
(ii) Tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng hoá ở Việt Nam;
(iii) Chỉ dẫn địa lý của nước ngoài mà tại nước đó chỉ dẫn địa lý không được bảo hộ, đã bị chấm dứt bảo hộ hoặc không còn được sử dụng;
(iv) Chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đang được bảo hộ, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó được thực hiện thì sẽ gây nhầm lẫn về nguồn gốc của sản phẩm;
(v) Chỉ dẫn địa lý gây hiểu sai lệch cho người tiêu dùng về nguồn gốc địa lý thực của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó.
Một điểm cần lưu ý trong quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam là quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý thuộc về nhà nước. Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, tổ chức tập thể đại diện cho các tổ chức, cá nhân đó hoặc cơ quan quản lý hành chính địa phương nơi có chỉ dẫn địa lý thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý. Người thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý không trở thành chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý đó[19].
Ở mức độ quốc tế, Công ước Paris và Hiệp định TRIPs đều đưa ra những điều kiện cơ bản về bảo hộ chỉ dẫn địa lý mà các nước thành viên có nghĩa vụ tuân thủ khi đưa ra các quy định tương ứng trong luật quốc gia của mình. Tìm hiểu sâu hơn các quy định của luật quốc tế về vấn đề này, có thể thấy rằng mặc dù khái niệm chỉ dẫn địa lý không được trực tiếp đưa ra trong Công ước Paris nhưng Công ước cũng thừa nhận sự bảo hộ đối với chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ hàng hóa[20]. Theo đó, các thành viên phải có các biện pháp pháp lý để chống lại việc sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp các chỉ dẫn nguồn gốc mang tính chất lừa dối đối với các hàng hóa hoặc đặc điểm phân biệt của nhà sản xuất hoặc kinh doanh thương mại khác[21].
Hiệp định TRIPs cũng giành riêng một mục quy định về vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý, theo đó việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo hệ thống này được phân thành hai mức độ (i) chế độ bảo hộ cơ bản áp dụng đối với tất cả các loại chỉ dẫn địa lý nói chung được quy định tại Điều 22; và (ii) chế độ bảo hộ bổ sung chỉ áp dụng đối với chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang và rượu mạnh theo quy định tại Điều 23.
Điều 22 Hiệp định TRIPS đưa ra định nghĩa "chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định". Trong khi đó Điều 22.1 là nghĩa vụ của các thành viên trong việc quy định những biện pháp pháp lý để các bên liên quan ngăn ngừa:
(v) việc sử dụng bất kỳ phương tiện nào để gọi tên hoặc giới thiệu hàng hóa nhằm chỉ dẫn hoặc gợi ý rằng hàng hóa đó bắt nguồn từ một khu vực địa lý khác với xuất xứ thật, với cách thức lừa dối công chúng về xuất xứ địa lý của hàng hóa;
(vi) bất kỳ hành vi sử dụng nào cấu thành một hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo ý nghĩa của Điều 10bis Công ước Paris như nêu ở phần trên.
Điều 22.2 cũng được quy định bổ sung bởi Điều 22.3 và 22.4 trong đó Điều 22.3 quy định cụ thể về việc đăng ký các nhãn hiệu có chứa hoặc được tạo thành bởi một chỉ dẫn địa lý dùng cho hàng hóa không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng, nếu việc sử dụng chỉ dẫn đó trên hàng hóa sẽ gây hiểu sai về xuất xứ thật của hàng hóa. Các biện pháp pháp lý được đưa ra trong trường hợp này là từ chối hoặc hủy bỏ hiệu lực của đăng ký nhãn hiệu, một cách mặc nhiên, nếu luật quốc gia cho phép như vậy, hoặc theo yêu cầu của bên liên quan.
Một mức độ bảo hộ cao hơn được áp dụng cho chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang và rượu mạnh, khi mà nó được bảo hộ ngay cả trong trường hợp chưa hề có nguy cơ về việc công chúng sẽ hiểu sai về xuất xứ thực[22].
Điều 24 đưa ra một số ngoại lệ trong việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý và nói chung, các ngoại lệ này có thể được phân thành ba nhóm, cụ thể là (i) ngoại lệ về việc tiếp tục sử dụng hoặc sử dụng theo cách thức tương tự các chỉ dẫn dùng cho rượu mạnh và rượu vang; (ii) ngoại lệ về quyền đối với nhãn hiệu đã được xác lập trên cơ sở trung thực trước đó; và (iii) ngoại lệ về chỉ dẫn địa lý đã trở thành tên gọi chung của hàng hóa.Ngoại lệ đầu tiên là quyền của các quốc gia thành viên WTO cho phép việc công dân hoặc cư dân nước mình tiếp tục sử dụng hoặc sử dụng theo cách thức tương tự một chỉ dẫn địa lý cụ thể về rượu vang hoặc rượu mạnh của Thành viên khác cho hàng hóa hoặc dịch vụ, nếu người đó đã liên tục sử dụng tronh lãnh thổ của Thành viên đó chỉ dẫn địa lý đó cho hàng hóa hoặc dịch vụ cùng loại hoặc có liên quan trong thời gian ít nhất là 10 năm trước ngày 15/04/1994 hoặc một cách có thiện ý trước thời điểm đó[23].
Ngoại lệ thứ hai liên quan đến quyền đối với nhãn hiệu. Điều 24.5 quy định các biện pháp cơ bản được áp dụng để thi hành các quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo Hiệp định TRIPs sẽ không làm ảnh hưởng đến khả năng được đăng ký hoặc hiệu lực đăng ký của nhãn hiệu, hoặc quyền sử dụng nhãn hiệu, với lý do nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý, nếu đáp ứng các điều kiện sau: đơn đăng ký nhãn hiệu đã được nộp đơn, hoặc nhãn hiệu đã được đăng ký, hoặc, trong trường hợp quyền nhãn hiệu được phát sinh trên cơ sở sử dụng, nhãn hiệu đó đã được sử dụng trên cơ sở trung thực, ở các quốc gia thành viên liên quan, trước thời điểm Hiệp định TRIPs có hiệu lực ở quốc gia đó, hoặc trước khi chỉ dẫn địa lý liên quan được bảo hộ ở nước xuất xứ.
Ngoại lệ cuối cùng liên quan đến chỉ dẫn địa lý của các quốc gia thành viên mà các quốc gia thành viên khác, theo ngôn ngữ phổ thông trong lãnh thổ của Thành viên đó, sử dụng chỉ dẫn địa lý như một thuật ngữ chỉ tên gọi thông thường của hàng hóa.
b. Quy định về hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý
Luật SHTT quy định các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ:
(i) Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm mặc dù có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý, nhưng sản phẩm đó không đáp ứng các tiêu chuẩn về tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý;
(ii) Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm tương tự với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý nhằm mục đích lợi dụng danh tiếng, uy tín của chỉ dẫn địa lý;
(iii) Sử dụng bất kỳ dấu hiệu nào trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó làm cho người tiêu dùng hiểu sai rằng sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực địa lý đó;
(iv) Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ đối với rượu vang, rượu mạnh cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp có nêu chỉ dẫn về nguồn gốc xuất xứ thật của hàng hoá hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm hoặc được sử dụng kèm theo các từ loại, kiểu, dạng, phỏng theo hoặc những từ tương tự như vậy.
Việc xử lý hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại được quy định tương tự như hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu đã được giới thiệu ở Mục 3.2 nêu trên.
4. QUYỀN CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
a. Quy định về bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh
Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được bảo hộ tại Việt Nam dưới hình thức là quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh[24].
Điều 130 Luật SHTT quy định các hành vi sau đây bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
(i) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;
(ii) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ;
(iii) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
(iv) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.
Ngoài quy định tại Điều 130 Luật SHTT, Luật Thương mại cũng có điều khoản quy định 9 hành vi cạnh tranh không lành mạnh sau[25]:
- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
- Xâm phạm bí mật kinh doanh;
- Ép buộc trong kinh doanh;
- Gièm pha doanh nghiệp khác;
- Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- Phân biệt đối xử của hiệp hội;
- Bán hàng đa cấp bất chính;
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của Luật cạnh tranh[26].
Trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại Điều 39 Luật cạnh tranh nêu trên, có các hành vi "chỉ dẫn gây nhầm lẫn", "xâm phạm bí mật kinh doanh" và có thể là "các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo quy định tại Điều 3.4 Luật cạnh tranh" có thể, trong một chừng mực nào đó, tương tự với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ được quy định tại Điều 130 Luật SHTT. Các hành vi khác được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực thương mại nói chung. Vì vậy, thực tiễn xem xét hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần lưu ý phân biệt hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hai lĩnh vực này vì nội dung này sẽ ảnh hưởng đến thẩm quyền giải quyết của các cơ quan thực thi khi thụ lý hồ sơ liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh. Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ đi vào phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến quyền chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
Ở cấp độ luật quốc tế, Công ước Paris cũng có điều khoản về bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh khi Điều 10 Công ước quy định rằng các quốc gia trong Liên hiệp phải bảo đảm việc bảo hộ một cách có hiệu quả cho những bên có quyền hưởng lợi từ Công ước để chống cạnh tranh không lành mạnh. Công ước không quy định cụ thể về cách thức bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh mà các quốc gia có quyền tự do quy định trong luật của mình.
Điều 10bis Công ước định nghĩa các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh trái với thực tiễn trung thực trong các hoạt động thương mại hay công nghiệp. Cụ thể, những hành động sau đây phải bị ngăn cấm:
* tất cả những hành động có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất kỳ hình thức nào đối với cơ sở, hàng hóa, hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh của người cạnh tranh;
* những khẳng định sai lệch trong hoạt động thương mại có khả năng gây mất uy tín đối với cơ sở, hàng hóa, hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của người cạnh tranh;
* những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt động thương mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất, tính chất, tính thích hợp để sử dụng hoặc số lượng của hàng hóa.
b. Quy định về xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật SHTT và Luật cạnh tranh, về cơ bản, có thể phân thành hai nhóm khi xem xét vấn đề thực thi quyền, đó là (i) hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn và xâm phạm bí mật kinh doanh; (ii) hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên miền. Theo đó, thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được xác định như sau:
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn và xâm phạm bí mật kinh doanh sẽ thuộc thẩm quyền xử lý của (i) Cơ quan Thanh tra Khoa học và Công nghệ;
(ii) Ủy ban Nhân dân các cấp; và (iii) Cục quản lý cạnh tranh. Khi xử lý nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh này, các cơ quan thực thi có thể lựa chọn trình tự, thủ tục và biện pháp xử lý theo quy định tại Luật SHTT và Nghị định 97 hoặc thủ tục tố tụng cạnh tranh của Luật Cạnh tranh và Nghị định 120/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên miền sẽ thuộc thẩm quyền xử lý của (i) Cơ quan Thanh tra Khoa học và Công nghệ; (ii) Ủy ban Nhân dân các cấp; và (iii) Cơ quan Thanh tra Thông tin và Truyền thông. Khi xử lý nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh này, các cơ quan thực thi tuân theo quy định về trình tự, thủ tục và biện pháp xử lý theo quy định tại Luật SHTT và Nghị định 97, có viện dẫn đến quy định về xử lý tên miền quốc gia ".vn" có tranh chấp theo quy định tại Quyết định 73/QĐ-VNNIC ngày 17/03/2010 của Giám đốc Trung tâm Internet Việt Nam.
Trong thực tiễn xử lý hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên miền là mặc dù có quy định rõ ràng tại Nghị định 97 về thẩm quyền của Cơ quan Thanh tra Khoa học và Công nghệ hoặc Ủy ban nhân dân các cấp trong việc xử lý hành vi vi phạm này, việc thực thi quyết định thu hồi tên miền của hai cơ quan thực thi này cần nhận được sự hỗ trợ và đồng thuận từ phía Trung tâm Internet Việt Nam (cơ quan quản lý và đăng ký tên miền cho rằng quy định này xung đột với quy định của Luật Công nghệ thông tin)[27]. Vì vậy, rất cần thiết phải thống nhất với Trung tâm Internet Việt Nam và Bộ Thông tin và Truyền thông về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong việc thi hành các quyết định về xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên miền.
5. KẾT LUẬN
Trên đây là một số phân tích về hệ thống của pháp luật Việt Nam hiện hành trong vấn đề bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra một số vấn đề cần được quan tâm xử lý là xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong xử lý (i) hành vi xâm phạm liên quan đến tên thương mại; (ii) hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên miền; và (iii) hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn.
[1] Điều 2 Công ước Paris 1883: Trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu công nghiệp, công dân của bất kỳ nước thành viên nào cũng đều được hưởng các điều kiện thuận lợi như công dân của tất cả các nước thành viên khác mà luật tương ứng của nước đó quy định hoặc sẽ quy định mà; hoàn toàn không ảnh hưởng đến các quyền được quy định riêng trong Công ước này. Do đó, họ được hưởng sự bảo hộ và công cụ bảo vệ pháp luật chống mọi hành vi xâm phạm quyền của mình như những công dân của nước thành viên khác, miễn là tuân thủ các điều kiện và thủ tục quy định đối với công dân nước đó.
[2] Điều 4.16 Luật Sở hữu Trí tuệ 2005.
[3] Nhãn hiệu được bảo hộ theo Điều 6bis phải là nhãn hiệ̂u “nổi tiếng” theo quyết định của các cơ quan hành chính hoặc phán quyết của cơ quan tài phán có thẩm quyền ở một quốc gia thành viên. Một nhãn hiệu có thể chưa được sử dụng ở một quốc gia theo nghĩa là hàng hóa mang nhãn hiệu chưa được bán ở đó nhưng nhãn hiệu đó vẫn có thể là nhãn hiệu nổi tiếng ở quốc gia này do việc quảng cáo ở quốc gia đó hoặc sự tác động của quảng cáo ở quốc gia khác vào quốc gia đó.
Ngoài ra, cần lưu ý thêm rằng việc bảo hộ nhãn hiệu "nổi tiếng" theo Điều 6bis chỉ phát sinh khi nhãn hiệu xung đột đã được nộp đơn, đăng ký hoặc sử dụng cho hàng hóa trùng hoặc tương tự, theo sự xác định của cơ quan hành chính hoặc tòa án có thẩm quyền của quốc gia nơi nhãn hiệu được yêu cầu bảo hộ.
[5] Điều 74.2đ Luật SHTT.
[6] Điều 74.2.l Luật SHTT.
[7] Điều 74.2.m Luật SHTT.
[8] Điều 74.2.l Luật SHTT.
[10] Điều 11.1 Nghị định 97/NĐ-CP
[11] Điều 11.11 Nghị định 97/NĐ-CP
[12] Điều 4.21 Luật SHTT: Khu vực kinh doanh được hiểu là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng.
[13] Điều 8 Công ước Paris: Tên thương mại được bảo hộ ở tất cả các nước thành viên của Liên minh mà không bị bắt buộc phải nộp đơn hoặc đăng ký, bất kể tên thương mại đó có hay không là một phần của nhãn hiệu hàng hóa.
[14] Điều 32 Luật Doanh nghiệp và Điều 14 Nghị định 43/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh.
[15] Điều 17 Nghị định 43/NĐ-CP
[16] Điều 130.2 Luật SHTT.
[17] Điều 15.d Nghị định 97/NĐ-CP
[20] Điều 1.2 Công ước Paris.
[21] Điều 10bis Công ước Paris:
[22] Điều 23.1 Hiệp định TRIPs
[23] Điều 24.4 Hiệp định TRIPs
[25] Điều 39 Luật Cạnh tranh
[26] Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
[27] Điều 76 Luật Công nghệ thông tin quy định tranh chấp về đăng ký, sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam “.vn” được giải quyết theo các hình thức sau đây:
1. Thông qua thương lượng, hòa giải;
2. Thông qua trọng tài;
3. Khởi kiện tại Tòa án.
Vì vậy, Trung tâm Internet Việt Nam có ý kiến chưa thừa nhận quy định tại Nghị định 97 trong đó hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên miền sẽ được xử lý theo thủ tục hành chính.